Sunday, July 31, 2011

4 nguyên tắc vàng cho nhà lãnh đạo

(06 / 04 / 2011)
(CTG) Khi bạn là một nhà lãnh đạo, sự rộng lượng giúp bạn có được sự kính phục của nhân viên cũng như tạo sự tin tưởng đối với đối tác. Sự tin tưởng lẫn nhau chính là cách tốt nhất để việc làm ăn thành công.


Những nhà lãnh đạo xuất phát từ nhiều tầng lớp khác nhau, từ những lĩnh vực khác nhau và chặng đường mà họ trải qua cũng không hề giống nhau. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy có bốn yếu tố mà bất cứ nhà lãnh đạo nào cũng có. Nếu bạn muốn trở thành một nhà lãnh đạo tuyệt vời, bạn phải nắm vững những nhân tố sau:

- Rộng lượng

Sự rộng lượng chính là nhân tố cơ bản nhất, tạo tiền đề cho những yếu tố khác xuất hiện. Rộng lượng ở đây không chỉ được hiểu trong phạm vi hẹp mà nó còn mở rộng cả trong những mối quan hệ làm ăn. Đó có thể là cam kết hỗ trợ lẫn nhau, nhiệt tình chia sẻ sáng kiến hay ý tưởng của bản thân đối với đồng nghiệp. Đó cũng có thể là lời hứa giúp đỡ một người có tài đi đến thành công.



Sự rộng lượng có thể phá tan đi không khí căng thẳng trong làm ăn và tránh cho bạn khỏi bị cô lập

Sự rộng lượng có thể phá tan đi không khí căng thẳng trong làm ăn và tránh cho bạn khỏi bị cô lập. Khi bạn là một nhà lãnh đạo, sự rộng lượng giúp bạn có được sự kính phục của nhân viên cũng như tạo sự tin tưởng đối với đối tác. Sự tin tưởng lẫn nhau chính là cách tốt nhất để việc làm ăn thành công.

- Thân thiện

Những nhà lãnh đạo tài ba trên thế giới thường rất dễ gần với mọi người. Điều này cũng rất cần thiết đối với công việc. Khi làm việc với đối tác, bạn hãy cho những vệ sĩ đi ra chỗ khá, tạo không khí thân mật để công việc tiến hành thuận lợi hơn. Chính sự thân thiện của bạn sẽ thúc đẩy tiến độ công việc.

Hơn nữa, cách cư xử của một nhà lãnh đạo luôn là điều mà đối tác quan tâm, vì vậy, khi bạn thân thiện với một đối tác, những đối tác khác cũng sẽ tìm đến bạn.



Điều quan trọng đối với người lãnh đạo và phải tạo được chữ tín và lòng trung thành từ người khác

- Bộc trực

Bất cứ ai trong chúng ta đều thích sự chân thật và hơn ai hết, người lãnh đạo lại càng nên chân thật. Hãy thẳng thắn nói lên những suy nghĩ, quan điểm của bản thân, bạn sẽ nhận được những phản hồi tích cực. Sự bộc trực sẽ giúp bạn có được những lời giải thích, những câu trả lời thỏa đáng về vấn đề mà bạn quan tâm. Quan trọng hơn nữa, nó giúp bạn được tôn trọng.

- Giữ chữ tín

Trong kinh doanh, chữ tín chính là nhân tố tối quan trọng. Với những người bên cạnh mình, giữ chữ tín sẽ giúp bạn có được sự trung thành của họ. Với đối tác, chữ tín chính là cơ sở để tạo sự hợp tác tốt đẹp và lâu dài.

Điều này cũng giống như quy luật nhân quả: bạn cho đi và sẽ được nhận lại nhiều hơn thế. theo thời gian, bạn cho đi càng nhiều thì bạn nhận lại sẽ càng nhiều. Các đối tác sẽ xem trọng một lãnh đạo biết giữ chữ tín để tiếp tục hợp tác.


Theo Bưu điện Việt Nam
http://www.thanhgiong.vn/Home/Tin-tuc/NewsDetailld.aspx?id=10406
Continue Reading...

divangcuoctinh

Tạo hứng thú cho người học luôn là một vấn đề quan trọng trong hoạt động dạy - học. Bởi vì, như chúng ta biết, dạy - học là một hoạt động phức tạp, trong đó chất lượng, hiệu quả cơ bản phụ thuộc vào chủ thể nhận thức - người học. Và điều này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như: năng lực nhận thức, động cơ học tập, sự quyết tâm... (các yếu tố chủ quan); nó còn phụ thuộc vào: môi trường học tập, người tổ chức quá trình dạy học, sự hứng thú trong học tập (các yếu tố tương tác). Ở đây chúng tôi quan niệm, sự hứng thú trong học tập như là hệ quả của các yếu tố tương tác.

:xayda:

Các nhà nghiên cứu tâm lý học cho rằng, hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khoái cảm cá nhân trong quá trình hoạt động. Sự hứng thú biểu hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm con người. Trong bất cứ công việc gì, nếu có hứng thú làm việc, con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, làm nẩy sinh khát vọng hành động một cách có sáng tạo. Ngược lại, nếu không có hứng thú, dù là hoạt động gì cũng sẽ không đem lại hiệu quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học tập, khi không có hứng thú, kết quả sẽ không là gì hết, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.

Việc học có tính chất đối phó, miễn cưỡng, người học may lắm chỉ tiếp thu được một lượng kiến thức rất ít, không sâu, không bản chất. Và vì thế dễ quên.

Biện chứng của vấn đề này là ở chỗ, khi có hứng thú, say mê trong nghiên cứu, học tập thì thì việc lĩnh hội tri thức trở nên dễ dàng hơn; ngược lại, khi nắm bắt được vấn đề, tức là hiểu được bài thì người học lại có thêm hứng thú. Trên thực tế, những người không thích, không hứng thú khi học môn học nào đó thường là những người không học tốt môn học đó. Chính vì vậy, việc tạo hứng thú cho người học được xem là yêu cầu bắt buộc đối với bất cứ ai làm công tác giảng dạy, đối với bất cứ bộ môn khoa học nào.

Đối với triết học nói riêng, các môn lý luận chính trị nói chung, bộ môn khoa học với những kiến thức khó, trừu tượng..., và vẫn thường được xem là khô khan, thì việc tạo hứng thú cho người học lại cần được quan tâm nhiều hơn, và dĩ nhiên cũng khó tạo sự hứng thú hơn.

:choangluon:

Vấn đề là làm thế nào để tạo hứng thú cho người học khi giảng dạy triết học?

Đây là một vấn đề khó, không có một cách thức, con đường chung cho mọi người. Sự hứng thú của người học phụ thuộc nhiều yếu tố như phương pháp giảng dạy, phong cách, ngôn ngữ, cách thức tổ chức quá trình học tập của giảng viên; chương trình, giáo trình; còn phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng, ở đây là học sinh, sinh viên.

Vậy, thực tế vấn đề này như thế nào? Để tìm hiểu ý kiến của sinh viên xung quanh vấn đề hứng thú học tập triết học, chúng tôi đã tiến hành điều tra đối với 100 sinh viên đã học triết học theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên.

Với câu hỏi: Bạn đã bao giờ cảm thấy buồn ngủ khi tham gia các giờ học trên giảng đường chưa? Có 26% trả lời có; 66%: thỉnh thoảng; 8%: chưa; 0%: thường xuyên.

Với câu hỏi: Bạn đã bao giờ có cảm giác sợ đến giờ học triết học chưa? Có 28% trả lời chưa; 52%: đôi khi; 4%: thường xuyên; 16%: bình thường như các giờ học khác.

Khi được hỏi: Điều gì làm cho bạn cảm thấy nhàm chán nhất khi tham gia các giờ học trên giảng đường? Có 66% trả lời do phong cách của người dạy; 12%: nội dung bài học, môn học; 16%: việc sử dụng phương pháp; 0%: việc sử dụng phương tiện dạy học.

Câu hỏi: Điều gì quan trọng nhất tạo hứng thú cho người học? Có 80% trả lời nghệ thuật của người dạy; 7%: ý thức, trạng thái của người học; 10%: do đặc thù môn học quyết định; 3%: do các yếu tố, điều kiện khác.

Câu hỏi: Theo bạn, không khí lớp học quyết định như thế nào đến việc tạo hứng thú cho người học? Có 38% cho rằng đóng vai trò quyết định; 52%: rất quan trọng; 5%: bình thường; 5%: không quan trọng lắm.

Với câu hỏi: Yếu tố gì quyết định đến không khí của lớp học? Có 32% cho rằng do cách thức tổ chức giờ học của giảng viên; 40%: phương pháp mà giảng viên sử dụng; 10%: tầm quan trọng của bài học; 18%: ý thức của người học.

Còn với câu hỏi: Theo bạn, trong các giờ học, giảng viên có nên tạo một vài tình huống hài hước không? Có 10% cho rằng không nên; 26%: nên (vì nó góp phần thay đổi không khí lớp học); 64%: rất nên, nhưng phải gắn với nội dung bài học. 0%: tuyệt đối không.

Phân tích kết quả trên chúng ta thấy, việc có nhiều sinh viên không có hứng thú khi tham gia các giờ học triết học trên lớp là sự thật. Tình trạng đó, trên thực tế đã được báo động đối với nhiều môn học chứ không riêng gì triết học. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có cả yếu tố chương trình, giáo trình... Tuy nhiên, ở đây chúng tôi chỉ muốn bàn đến vấn đề trên xét trong quan hệ tương tác người dạy - người học.

Theo GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, nguyên Viện trưởng Viện Triết học thì việc này (người học không hứng thú với triết học), “không phải lỗi của sinh viên”[1]. Chúng tôi cũng thấy rằng, đó không phải lỗi tại triết học. Nó phụ thuộc nhiều vào người dạy triết học, vào cách người ta dạy triết học; và phần nào đó là phụ thuộc vào người học triết học.

Điều tra của chúng tôi cũng cho thấy, phần đa số ý kiến được hỏi đều trả lời, yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự hứng thú hay không hứng thú cho người học phụ thuộc nhiều vào người dạy học. Cụ thể hơn, cơ bản vẫn là ở cách thức tổ chức giờ dạy của giảng viên, ở sự cuốn hút, hay nói cách khác là nghệ thuật của giảng viên khi lên lớp. Dĩ nhiên, điều làm cho sinh viên nhàm chán nhất cũng chính là do người dạy.



Kết quả trên cũng góp phần khẳng định, việc có hay không có hứng thú trong học tập quan trọng như thế nào đến chất lượng học tập. Việc dạy - học kích thích sức mạnh nội tâm đến một chừng mực nào đó thì sẽ có sức lôi cuốn, hấp dẫn chừng ấy. Ngược lại, những gì lôi cuốn làm ta say mê cũng đều kích thích sức mạnh nội tâm của chúng ta. Mà kích thích sức mạnh nội tâm chính là phát huy tối đa tâm lực của chúng ta, giúp ta phát huy được năng lực của mình.

Khi ta tiếp cận một bài thơ, nhiều khi ta thích nó mà không giải thích được vì sao, mà thậm chí cũng không cần phải trả lời câu hỏi đó. Đơn giản, chỉ là thích, là yêu, như yêu một bản nhạc, một bức tranh. Tuy nhiên, khi ta hiểu được cái hay, cái đẹp của nó thì cảm xúc thẩm mỹ sẽ ở một mức độ sâu hơn. Đối với tri thức triết học thì khác, nếu không hiểu về quy luật đó, không thấy được giá trị của nó trong thực tiễn đối với việc giải thích các hiện tượng, định hướng hành động với tư cách là thế giới quan thì người ta sẽ không thích, không có hứng thú về nó. Người dạy triết học phải làm cho người học thích triết học, thích học triết học. Muốn vậy, phải biến các bài dạy triết học sao cho mức độ phù hợp với người học. Kiến thức các nguyên lý, quy luật thì không thay đổi. Nhưng tuỳ với đối tượng có trình độ nhận thức như thế nào mà người dạy có thể truyền đạt mức độ nông sâu khác nhau. Và đặc biệt, điều quan trọng nhất là phải giản dị hoá các kiến thức triết học bằng cách đưa các tri thức triết học có tính chất hàn lâm, kinh viện về gần với cuộc sống hơn, dễ hiểu hơn với người học. Phải làm cho nguời học thấy được triết học, nhất là triết học Mác - Lênin thực sự là triết học cuộc sống, có ích cho cuộc sống, có ích cho người học. Bất cứ hiện tượng nào đó của cuộc sống, xét đến cùng đều có thể sử dụng kiến thức triết học để soi sáng, lý giải, và cao hơn, là cải tạo cuộc sống. Đối với triết học Mác - Lênin, các nguyên lý, quy luật, phạm trù..., các luận giải về sự vận động, phát triển của xã hội loài người đều được tổng kết từ thực tiễn. Nó không là sản phẩm của trí tưởng tượng thuần tuý, tư biện. Vì thế, việc gắn nó với thực tiễn cuộc sống là yêu cầu sống còn. Triết học mà xa rời cuộc sống thì nó sẽ trở nên thuần tuý lý thuyết, không có sức sống, người học không thấy cái hay, cái đẹp, cái có ích khi học nó và tất nhiên là không có hứng thú.

Vì vậy, theo chúng tôi, để tạo hứng thú cho sinh viên khi học triết học, trước hết người dạy phải yêu triết học, yêu thích công việc giảng dạy triết học của mình. Bởi vì, khi ta yêu công việc, ta sẽ dồn vào đó tâm huyết, sự say mê, nhiệt tình. Tình yêu ấy dần dần sẽ đến với người học.

Thứ hai, phải gắn triết học với hiện thực cuộc sống. Đây cũng là một nguyên tắc cơ bản của giáo dục. Trong giảng dạy triết học, người dạy có thể đưa các kiến thức triết học gắn với đời sống thực tiễn, liên hệ với thực tiễn bằng cách lấy các ví dụ. Tôi cho rằng, việc lấy các ví dụ thành công cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp người học hiểu bài và nhất là có thể tạo sự hứng thú cho người học. Muốn vậy, ví dụ trước hết phải phù hợp, phải đúng để giúp người học hiểu bài. Tiếp đến, ví dụ phải điển hình, phải hay. Và nếu có thể, thêm yếu tố hài hước. Như thế, tiết học sẽ trở nên nhẹ nhàng, vui vẻ, giảm sự căng thẳng, dễ tạo hứng thú cho người học, đặc biệt là người học dễ nhớ bằng các liên hệ thực tiễn chứ không phải nhớ máy móc các kiến thức sách vở.

Thứ ba, người dạy phải làm chủ được giờ học, thấy được tín hiệu ngược chiều từ người học để chủ động thay đổi, điều chỉnh nhịp độ giờ giảng. Tránh tình trạng đều đều, buồn buồn, thầy giảng còn trò làm gì không biết!

Thứ tư, cố gắng tạo không khí lớp học nhẹ nhàng, không căng thẳng, đừng làm người học “sợ” (từ sợ thầy cô giáo dẫn đến sợ và chán môn học).

Dĩ nhiên, đây là vấn đề phức tạp và tuyệt không có khuôn mẫu chung cho mọi người. Những ý kiến trên hoàn toàn mang tính chủ quan từ kinh nghiệm 15 năm giảng dạy triết học của cá nhân. Rất mong được sự góp ý trao đổi của các đồng nghiệp.

:khoechua:
http://yhaiphong.net/yhp/archive/index.php/t-6139.html
Continue Reading...

Danh ngôn Triết học

Danh ngôn triết học ở đây là những lời phát biẻu nổi tiếng của các triết gia vĩ đại trên thế giới. Mỗi câu đều chứa đựng nhiều nội dung tư tưởng sâu sắc, thể hiện tư tưởng về thế giới, về nhân sinh. Mỗi câu đều gợi cho chúng ta ý nghĩa triết học sâu sắc, giúp cho chúng ta định hướng trong duy nghĩ và hành động.

1. “Hãy tự thắp đuốc mà đi tới” (Phật Thích Ca Mâu Ni)
2. “Học không biết chán, dạy người không biết mỏi" (Khổng Tử)
3. “Tôi chưa gặp một ai yêu đức như người ta yêu sắc đẹp của người phụ nữ” (Khổng Tử)
4. "Không có giai cấp trong cùng dòng máu đỏ, trong cùng một nước mắt từ mắt,... Mọi đẳng cấp đều hoà tan trong tôn giáo của ta cũng như mọi con sông chảy về biển cả. Cũng như biển cả chỉ có một mùi vị - mùi vị của muối, học thuyết của ta chỉ có một mục đích tối thượng là giải thoát khỏi sự đau khổ".(Phật Thích Ca Mâu Ni)
5. “Triết học ban tặng cho con người sự khinh thường cái chết” (Dênông - người ở TP. Êlê)
6. “Tình yêu và thù địchCả hai đều bất tử” (Empeđôclơ)
7. “Khi đánh giá con người thì cần phải xem toàn bộ ý định và kết quả hành động của người đó” (Mặc Tử)
8. “Sự thông thái sinh ra ba năng lực: đưa ra các quyết định tuyệt vời, nói đúng và làm việc nên làm” (Đêmôcrít)
9. “Con người - Hãy tự nhận thức chính mình” (Sôcrát)
10. “Triết học đem lại cho tôi khả năng đàm thoại với chính mình” (Antisphen)
11. “Các nhà triết học chân chính là những người ưu thích phát hiện ra chân lý” (Platôn)
12. “Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên” (Arixtốt)
13. “Tư duy và cái được tư duy cùng là một, vì cả hai đều có vật chất” (Arixtốt)
14. “Đông và Tây đối lập với nhau, nhưng không thể tồn tại thiếu nhau” (Trang Tử)
15. “Cần phải cười và triết lý, đồng thời cũng phải làm kinh tế và sử dụng hết thảy mọi năng lực khác và không ngừng nói ra những động từ của triết học chân chính” (Êpiquya)
16. “Không sùng bái quá khứ, không đau khổ về tương lai, không đam mê các suy nghĩ mông lung! Khi thời điểm thích hợp tới, cần phải hành động” (Tuân Tử)
17. “Thời gian là nhà cách tân vĩ đại nhất” (Ph.Bêcơn)
18. Con ong khai thác vật liệu từ hoa ngừi vườn và ruộng đồng, nhưng sử dụng và biến đổi nó phù hợp với khả năng và chủ định của mình. Công vịcc đích thực của nhà triết học cũng không khác gì công việc đó.” (Ph.Bêcơn)
19. “Triết học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới” (Ph.Bêcơn)
20. “Hãy đưa cho tôi vật chất và vận động, tôi sẽ xây dựng vũ trụ cho các bạn” (Đềcáctơ)
21. “Thà đừng mong đi tìm bất cứ một chân lý nào cả còn hơn làm việc đó mà không có phương pháp” (Đềcáctơ)
22. “Không có chân lý nào được toàn bộ nhân loại thừa nhân” (G.Lốccơ)
23. “Tất cả tri thức của chúng ta đều căn cứ trên kinh nghiệm, rốt cuộc đề bắt nguồn từ nó” (G.Lốccơ)
24. “Thượng đế và giới tự nhiên chỉ là một” (Spinôda)
25. “Mê tín - kẻ thù khủng khiếp nhất của loài người’’ (Vônte)
26. “Vật chất và ý niệm cũng là các thuộc tính của vũ trụ” (Vônte)
27. “Con người sinh ra đã muốn hành động” (Vônte)
28. “Điều gì mình không muốn cho mình thì chớ áp đặt cho người khác” (Khổng Tử)
29. “Hãy trở thành nhà triết học, , nhưng phải đắm mình trong triết học và phải là con người” (D.Hium)
30. “Tự nhiên bao giờ cũng mạnh hơn các nguyên tắc” (D.Hium)
31. “Tôi càng suy ngẫm nhiều thì có hai điều càng làm cho tâm hồn tôi kinh ngạc và tôn kính hơn cả là: bầu trời ở trên đầu tôi và quy tắc đạo đức ở trong tôi” (I. Cantơ)
32. “Có thể quy triết học theo nghĩa rộng về các vấn đề sau đây:
1). Tôi có thể biết gì?
2). Tôi cần phải làm gì?
3). Tôi có thể hy vọng vào cái gì?
4). Con người là gì?
(I. Cantơ)
39. “Tâm hồn có ba năng lực: Năng lực nhận thức, năng lực thụ cảm và năng lực phán đoán” (I.Cantơ)
40. “Giới tự nhiên là vô cùng tận trong những biểu hiện mới” (I.Cantơ)
41. “Đạo đức học là triết học thuyết phục” (I.Cantơ)
42. “Cần học không phải là các tư tưởng mà là học tư duy” (I.Cantơ)
43. “Làm việc là cách thưởng thức cuộc sống tốt nhất” (I.Cantơ)
44. “Chân lý là gì? Là sự phù hợp của tư tưởng với khách thể của nó” (G.B.R. Rôbinê)
“Người ta nói rằng chân lý nằm giữa hai ý kiến đối lập. Không bao giờ! Nằm giữa chúng là vấn đề!” (G.V. Gớt)
45. “Mâu thuẫn là cội nguồn của tất cả mọi sức sống” (G.Hêghen)
46. “Đạo đức phải thể hiện dưới hình thức cái đẹp” (G.Hêghen)
47. “Nền giáo dục tốt nhất là: biến học trò thành công dân của dân tộc có tổ chức tốt nhất” (G.Hêghen)
48. “Con người không thể trở thành chủ nhân của giới tự nhiên khi nó chưa trở thành chủ nhân của bản thân mình” (G.Hêghen)
49. “Triết học là sự tổng kết lịch sử tư duy” (Hêghen)
50. “Hiện nay chúng ta phải liên tục nhớ rằng con người khác với con vật chính là ở chỗ con người biết biết tư duy” (Hêghen)
51. “Triết học là thời đại đương thời với nó được nhận thức trong tư duy” (Hêghen)
52. “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” (Ph.Ăngghen)
53. “Muốn xây dựng đất nước, trước hết phải phát triển giáo dục. Muốn trị nước, phải trọng dụng người tài” (Quang Trung và Ngô Thì Nhậm - Chiếu lập học, khoảng năm 1790).
54. “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” (Nguyễn Du)
55. “Đầu tiên là công việc đối với con người” (Hồ Chí Minh)

Nguyễn Bá Cường sưu tầm và biên soạn
Nguồn: Khoa GDCT - ĐHSP Hà Nội
http://www.svsupham.vn/archive/index.php/t-11457.html
Continue Reading...
 
ឡើងទៅខាងលើទំព័រ ចុះទៅខាងក្រោមទំព័រ